Ngày vào hội, ngay từ sáng sớm, các quan viên kỳ mục hay già làng đã có mặt ở đình làng làm lễ tế thành hoàng làng và cáo yết thần linh (thần nông) phù trợ cho mùa màng tốt tươi. Sau đó mọi người tập chung ở những vị trí đã chọn trước để tổ chức lễ hạ điền. Đó là mảnh ruộng công màu mỡ (thường cách đình không xa), được cày thật kỹ, ở giữa ruộng cắm một cây tre tươi đủ cành lá. Trên ngọn cây buộc một đụn lúa nhiều bông chắc hạt. Sau lễ cáo yết thần ruộng, lễ hạ điền bắt đầu bằng nghi thức cấy lúa.
Những người thực hiện nghi thức này được gọi là những chúa đồng. Có làng chọn một chúa, có làng chọn 3 hoặc 5 chúa đồng. Đó là các vị cao niên, am hiểu ruộng đất, thạo nghề cấy hái, gia đình hòa thuận, đông con nhiều cháu, phúc hậu, không gặp trở (tang ma). Mọi người hy vọng những đức tính tốt đẹp đó của chúa đồng sẽ hòa nhập vào cây lúa, truyền cho lúa sức sống sinh sôi mãnh liệt. Sau khi lễ thần linh, thổ địa, chúa đồng lội xuống ruộng và cấy mạ vòng quanh chân cây nêu. Trong khi đó, dân làng hò reo vui vẻ, đánh trống giả sấm, té nước giả mưa, hất bùn giả thiên tai vào chúa đồng. Nếu chúa đồng vẫn đứng vững, vẫn cấy đẹp đẽ thì dân làng cho rằng mong ước của nhân dân mùa màng tươi tốt nhất định sẽ thành hiện thực. Khung cảnh buổi lễ thật nhộn nhịp.
Sau khi chúa đồng cấy được một khoảng ruộng, dân làng ùa nhau xuống cấy tiếp trong không khí hào hứng, sôi nổi, với mong muốn mình cũng thạo việc và có nhiều đức tốt như chúa đồng. Sau khi cấy xong thửa ruộng công, dân làng về, ai cấy của nhà nấy. Mọi người tin rằng không khí sinh sôi của lễ hạ điền sẽ truyền cho cây lúa của riêng từng nhà.
Lễ hạ điền tuy đơn giản nhưng thật thiêng liêng đối với người nông dân xưa. Đây thực sự là lễ trình nghề cấy lúa với mong ước mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, con người khỏe mạnh, thạo việc và hạnh phúc. Trong lễ hội, tính cộng đồng được phát huy mạnh mẽ khiến con người thêm gắn bó với nhau, tạo sự cấu kết trong cộng đồng.
(Theo Từ điển Lễ tục Việt Nam,
NXB Văn hóa Thông tin, 1996)