Giải đáp liên quan vấn đề thừa kế

* Trả lời:

Do ông Nguyễn Văn A (“Ông A”) mất mà chưa kịp để lại di chúc nên số tài sản của ông sẽ chia cho những người thừa kế theo pháp luật theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 675, Điều 676 Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11(“Bộ luật dân sự 2005”).

Theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự 2005, người thừa kế theo pháp luậtđược quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

Trong đó, những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau và những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Do đó, trong trường hợp bạn nêu tại câu hỏi, nếu vào thời điểm mở thừa kế mà ông A không còn cha mẹ (cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi) thì tài sản của ông sẽ được chia đều cho vợ, hai con gái và người con riêng của ông. Tình nhân của ông A không được hưởng di sản bởi vì, mối quan hệ giữa ông A và người tình đã vi phạm điều cấm của Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành năm 2014. Theo đó, điểm c, Khoản 2 Điều 5 của Luật này quy định: “Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”.

Lưu ý: Những người nêu trên, mặc dù là người thừa kế theo pháp luật của ông A, nhưng không được quyền hưởng di sản của ông A (người để lại di sản) nếu họ là một trong những người sau:

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

(Khoản 1 Điều 643 Bộ luật dân sự 2005)

Văn phòng Luật sư NHQuang và Cộng sự
B23, Khu Biệt thự Trung Hòa – Nhân Chính, 
Thanh Xuân, Hà Nội